Hòa giải tranh chấp đất là thuyết phục các bên giải quyết tranh chấp của mình một cách ổn thỏa với sự tham gia của một bên thứ ba với tư cách là Hòa Giải Viên.
Đây là phương thức giải quyết tranh chấp khá phổ biến trong các phương thức giải quyết tranh chấp thông thường. Tuy nhiên, gắn với tranh chấp đất đai, việc áp dụng hòa giải khá khác biệt gắn với 2 hình thức hòa giải nói chung, gồm: Hòa Giải Trong Tố Tụng và Hòa Giải Ngoài Tố Tụng.
Trên thực tế, có nhiều loại hình hòa giải và từng trường hợp sẽ áp dụng từng loại hòa giải khách nhau. Để làm rõ vấn đề này, mời bà con xem bài chia sẻ sau.
Có 2 loại hòa giải chủ yếu là Hòa giải ngoài tố tụng và Hòa giải trong tố tụng.
1. Hòa Giải Trong Tố Tụng :
A. Đối với án Dân Sự :
Hòa giải trong tố tụng được Tòa án nhân dân áp dụng khi thụ lý đơn khởi kiện liên quan đến tranh chấp đất đai. Đây là một chế định bắt buộc trong thủ tục tố tụng nhằm tạo điều kiện cho các bên có cơ hội thỏa thuận lại các vấn đề phát sinh để đi đến hướng giải quyết tranh chấp.
Thẩm phán là người trung gian đứng ra hòa giải. Thẩm phán sẽ là người am hiểu pháp luật về đất đai, có trình độ chuyên môn để và có kỹ năng hòa giải Nếu các bên không hòa giải được thì Tòa án nhân dân sẽ đưa vụ án ra xét xử dựng trên tài liệu, chứng cứ mà các bên trình bày để đưa ra phán quyết.
B. Đối với án Hành Chính :
Tương tự với hòa giải, đối thoại được áp dụng đối với các tranh chấp tố tụng hành chính với các khiếu kiện quyết định hành chính và hành vi hành chính về đất đai sau khi Tòa án thụ lý vụ án.
2. Hòa Giải Ngoài Tố Tụng :
Trong lĩnh vực đất đai, hòa giải ngoài tố tụng bao gồm: hòa giải tại Ủy ban nhân dân (UBND) cấp xã và hòa giải cơ sở.
A. Hòa giải tại UBND cấp Xã :
UBND cấp xã bao gồm: UBND xã, phường, thị trấn – là cấp cơ sở nơi có đất đang bị tranh chấp. Xuất phát từ tính bất động của tài sản là đất và tính lịch sử trong quá trình sử dụng đất gắn với yêu cầu chuyên môn của cơ quan quản lý.
UBND cấp xã được xem là đơn vị có đủ thẩm quyền và năng lực chuyên môn để xử lý tranh chấp bằng phương thức ôn hòa trên cơ sở hệ thống dữ liệu về quản lý đất đai như bản đồ địa chính, biến động sử dụng đất, quy hoạch sử dụng đất….
Hòa giải tại UBND cấp xã là điều kiện bắt buộc phải thực hiện trước khi khởi kiện ra Tòa án nhân dân khi tranh chấp xác định “ai là người có quyền sử dụng đất” theo Khoản 2 Điều 3 Nghị quyết số 04/2017/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
Còn các tranh chấp khác như tranh chấp về thừa kế, chia tài sản chung giữa vợ và chồng, tranh chấp các giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất thì không bắt buộc phải hòa giải tại UBND cấp xã, mà hòa giải theo thủ Tố tụng dân sự khi Tòa án nhân dân thụ lý vụ việc dân sự.
Tuy nhiên Khoản 1 Điều 202 Luật Đất đai năm 2013 quy định: “Nhà nước khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hòa giải hoặc giải quyết tranh chấp đất đai thông qua hòa giải ở cơ sở”.
Điều này thể hiện Nhà nước không bắt buộc hòa giải nhưng khuyến khích các bên thực hiện nhằm giải quyết các xung đột về quyền và lợi ích của các chủ thể liên quan, đồng thời chấm dứt quá trình tố tụng kéo dài và hạn chế những thiệt hại không đáng có; đặc biệt xây dựng mối quan hệ đậm truyền thống của nhân dân ta – mối quan hệ làng xóm và cộng đồng.
B. Hòa Giải Cơ Sở
Hòa giải cơ sở cũng là biện pháp giải quyết các tranh chấp đất đai nhằm hướng đến kết quả cuối cùng bằng các thỏa thuận chung trên cơ sở tự do ý chí của các bên liên quan gắn với thôn, làng, ấp, bản, buôn, phum, sóc, tổ dân phố, khu phố, khối phố và cộng đồng dân cư khác (sau đây gọi chung là thôn, tổ dân phố).
Tuy nhiên, khác với các hòa giải khác, hòa giải cơ sở đối với tranh chấp đất đai là loại hòa giải không bắt buộc và không là căn cứ để xác định điều kiện thụ lý tranh chấp đất đai tại Tòa án nhân dân nếu có hành vi khởi kiện.
Đây là hình thức được áp dụng chủ yếu với các tranh chấp đơn giản, tập trung các tranh chấp mang tính cục bộ địa phương và được hỗ trợ bởi một bên thứ ba – làm chức năng trung gian – Hòa giải viên hoạt động bên cạnh tổ hòa giải.
Hiện nay, phương thức hòa giải cơ sở được quy định tại Luật Hòa giải cơ sở năm 2013. Luật Hòa giải cơ sở năm 2013 khuyến khích sự tham gia của những người có uy tín trong gia đình, dòng họ và cộng đồng dân cư. Luật nhấn mạnh, hiệu quả giải quyết tranh chấp không chỉ tập trung vào vai trò của cá nhân mà còn đặt cá nhân bên cạnh mối quan hệ truyền thống – cộng đồng dân cư dưới tác động của phong tục tập quán, hương ước và lệ ước địa phương.
Đây là hình thức đặc biệt có hiệu quả đối với các tranh chấp đất đai phát sinh từ hoạt động quản lý đất rừng theo cách thức truyền thống của dân tộc thiểu số. Tại các khu vực này, mặc dù xét về mặt pháp lý thì các quyền sử dụng đất chưa được xác lập, nhưng trên thực tế đang được điều tiết không chính thức bằng các quy định truyền thống có tính phong tục, và áp dụng rộng rãi.